1. Bệnh do vi khuẩn Vibrio
* Dấu hiệu:
– Đứt râu, thối mang, đen mang, thối đuôi, đốm đen.
– Tôm bẩn mình, bẩn mang, cơ thể chuyển màu hồng đỏ, tôm yếu, bỏ ăn rồi chết.
– Hiện tượng chết có thể xảy ra khi bệnh ở mức độ cấp tính. Nếu mãn tính có thể gây chậm lớn, phân đàn, mềm vỏ…
* Tác nhân gây bệnh:
– Tác nhân chính gây ra các bệnh trên là vi khuẩn thuộc giống Vibrio.
– Vi khuẩn Vibrio xâm nhập vào ao nuôi theo: nguồn nước, tôm giống, thức ăn, từ đáy ao nếu công tác tẩy dọn chưa tốt.
* Phòng – trị bệnh:
– Áp dụng tổng hợp các biện pháp để kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn:
+ Giữ chất lượng nước ao nuôi tốt.
+ Không nuôi mật độ quá cao.
+ Tránh làm tôm bị tổn thương.
+ Định kỳ dùng chế phẩm vi sinh để giảm hàm lượng chất hữu cơ trong ao nuôi.
+ Giảm độ mặn nước xuống 15 – 20 ‰ có thể hạn chế vi khuẩn Vibrio phát triển.
+ Tăng sức đề kháng bằng quản lý môi trường tốt và bổ sung vitamin C, A, E.
– Bệnh vi khuẩn thường xảy ra khi nước ao bẩn, tôm yếu, vì vậy nên áp dụng đồng thời các biện pháp:
+ Cải thiện điều kiện môi trường và diệt vi khuẩn trong cơ thể: siphon đáy, thay nước mới để làm giảm mật độ vi khuẩn trong nước. Sử dụng các sản phẩm trong danh mục cho phép của Bộ NN&PTNT và theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
+ Tăng sức đề kháng cho tôm: bổ sung vitamin C vào thức ăn.
+ Sử dụng dầu mực bao gói thức ăn: 5-10ml/kg thức ăn
+ Kích thích lột xác bằng Saponine 10-15g/m3
2. Bệnh do vi khuẩn dạng sợi
* Dấu hiệu bệnh lý:
– Mang tôm biến đen hoặc biến màu nâu, các chân ngực và chân bơi có màu xám bám đầy lông tơ.
– Bệnh nặng thì mang chuyển sang màu vàng, màu xám hoặc màu xanh bám nhiều lông tơ làm ảnh hưởng đến hô hấp. Tôm thường nổi đầu, dạt vào bờ và chết rải rác.
– Nghiêm trọng hơn làm tôm không lột xác được.
– Bệnh thường gặp ở ao nuôi có hàm lượng chất hữu cơ cao, mật độ nuôi dày.
* Tác nhân gây bệnh:
– Chủ yếu là Vi khuẩn dạng sợi Leucothrix mucor, ngoài ra có thể do một số vi khuẩn dạng sợi khác: Cytophagr sp, Flexibacter sp, Thiothrix sp…Chúng có thể độc lập hay phối hợp với nhau gây bệnh ở mang, thân và các phụ bộ của tôm.
– Các vi khuẩn dạng sợi này sống hoại sinh trong nước biển, cửa sông và có thể bám lên bề mặt ngoài của tôm gây bệnh, có khả năng phân giải kitin, xenlulose và nhiều hợp chất hữu cơ khác.
* Phòng – trị bệnh:
– Cải thiện môi trường: thay nước, quạt nước
Cải thiện điều kiện môi trường và diệt vi khuẩn trong cơ thể: siphon đáy, thay nước mới để làm giảm mật độ vi khuẩn trong nước. Sử dụng các sản phẩm trong danh mục cho phép của Bộ NN và theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
– Tăng sức để kháng cho tôm: Bổ sung vitamin C
– Không nuôi mật độ quá cao
– Tránh làm tôm bị tổn thương
– Định kỳ dùng chế phẩm vi sinh để giảm hàm lượng chất hữu cơ. Tăng cường sức đề kháng cho tôm bằng quản lý môi trường tốt và bổ sung vitamin C, A, E, và betaglucan.
– Ao đã bị bệnh thì dùng 1-2mg/m3 Saponine hoặc bột hạt chè phun đều khắp ao kích thích tôm lột xác. Lột xác xong lại thêm nước để giảm nồng độ Saponine, hoặc dùng 2-5mg/m3 KMnO4 ( thuốc tím) phun khắp ao sau 4 giờ thì thay nuớc.
3. Bệnh đóng rong hay mảng bám
* Dấu hiệu bệnh lý:
– Các sinh vật bám vào chân, mắt, vỏ giáp thành một lớp lông tơ có màu đen (xem kính hiển vi rất rõ).
– Tôm bị bệnh thường tách đàn nổi lên mặt nước bơi lờ đờ hay bám thành bờ, phản ứng chậm chạp, kém ăn, không lột xác được.
– Bệnh nặng, các sinh vật bám phát triển bám vào mang làm tôm không thở được tôm bị thiếu ôxy nên chết.
* Tác nhân gây bệnh:
Do các sinh vật bám gây ra:
– Động vật nguyên sinh như Epistylis, Vorticella, Acineta, Ephelota.
– Tảo lam như Spirulina subsalsa, Schizthrix calcicola; tảo lục như Enteromorpha sp; tảo khuê Amphora sp, Nitszchia sp.
* Phòng – trị bệnh:
Bệnh sinh vật bám ở tôm xảy ra khi nước ao bẩn, có nhiều tảo bám, nhiều nguyên sinh động vật (trùng loa kèn) nên phải áp dụng các biện pháp:
– Cải thiện điều kiện môi trường:
+ Duy trì độ trong thích hợp, ổn định tảo trong ao.
+ Tăng cường thay nước sạch (10 – 20% nước/lần) để làm giảm sinh vật bám trong ao, cải thiện môi trường
+ Tăng cường quạt nước để tăng hàm lượng ôxy hòa tan trong ao nuôi
+ Cho ăn đúng mức để tránh ô nhiễm đáy ao.
+ Vớt tảo nổi trên bề mặt.
+ Xử lý nước ao bằng chế phẩm vi sinh để hấp thu khí độc NH3 và phân hủy chất hữu cơ, hạn chế sự phát triển của tảo.
– Tăng sức đề kháng cho tôm: bổ sung Vitamin C vào thức ăn để giúp tôm giảm stress, tăng sức khỏe cho tôm.
– Kích thích tôm lột xác: thay nước hoặc dùng Saponin 10-15g/m3 tạt khắp ao giúp tôm lột xác đồng đều.
– Diệt sinh vật bám: nếu tỷ lệ tôm nhiễm bệnh cao có thể sử dụng hóa chất diệt bớt sinh vật bám như formol (25ml/m3) hoặc CuSO4.
4. Bệnh mềm vỏ ở tôm thẻ chân trắng
* Dấu hiệu bệnh lý:
Tôm nuôi thương phẩm bị bệnh mềm vỏ thường có dấu hiệu bệnh lý:
– Tôm có màu xỉn, vỏ bị mềm có khi rất mềm, vỏ rời thịt.
– Những con mềm vỏ thường yếu, kém hoạt động, dễ bị con khác ăn thịt hoặc dễ bị các sinh vật gây bệnh tấn công, dễ bị mắc các bệnh bẩn mình bẩn mang, chết rải rác.
– Tôm bị mềm vỏ thường chậm lớn, giảm giá trị thương phẩm và dễ mắc các bệnh cơ hội. Bệnh thường xảy ra trong các ao nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh.
* Tác nhân gây bệnh:
Bệnh mềm vỏ ở tôm thẻ chân trắng có liên quan đến môi trường và dinh dưỡng. Do thiếu dinh dưỡng, thức ăn thiếu Canxi và phốt pho. Độ cứng thấp.
– Nước ao nuôi nhiễm thuốc trừ sâu.
– Hàm lượng lân trong nước thấp.
* Phòng – trị bệnh:
– Quản lý môi trường có độ kiềm từ 80-160mg/l bằng cách: bón vôi CaCO3 hay Dolomite (CaMg(CO3)2) định kỳ một tuần một lần cho ao nuôi.
– Quản lý môi trường ao nuôi thích hợp và ổn định tránh gây sốc cho tôm.
– Bổ sung thêm khoáng thích hợp vào khẩu phần thức ăn như: Canxi/phos, Premix…
5. Bệnh thiếu vitamin C
* Dấu hiệu bệnh lý:
Tôm bị bệnh thiếu vitamin C thường có các dấu hiệu bệnh lý:
– Xuất hiện các vùng cơ màu đen dưới lớp vỏ ở mặt lưng của phần bụng, ở các chân bơi, chân bò, trên mang tôm cũng có các vệt đen.
– Tôm ăn ít hoặc bỏ ăn, sức đề kháng giảm, khả năng chịu sốc kém, dễ bị các tác nhân gây bệnh cơ hội tấn công tôm sinh trưởng chậm, chết rải rác 1-5% hàng ngày (tỷ lệ hao hụt tổng cộng rất cao 80-90%).
– Bệnh thường gặp trong ao nuôi thâm canh, đặc biệt trong những ao tảo kém phát triển.
* Tác nhân gây bệnh:
Do khẩu phần ăn của tôm bị thiếu vitamin C
* Phòng – trị bệnh:
Sử dụng thuốc và biện pháp trị bệnh như sau:
– Bổ sung một lượng vitamin C thích hợp vào khẩu phần thức ăn cho đến khi khỏi bệnh.
– Cho tôm ăn thường xuyên vitamin C với các ao nuôi bằng thức ăn công nghiệp, môi trường ao nuôi thiếu tảo.
6. Bệnh cong thân
* Dấu hiệu bệnh lý:
Tôm bị bệnh có hiện tượng cơ co rút, đuôi cong về phía bụng, không duỗi ra được.
* Tác nhân gây bệnh:
– Bệnh thường xảy ra khi ta kéo tôm lên khỏi mặt nước đột ngột vào những ngày nắng nóng hay lạnh rét, nhiệt độ không khí quá chênh lệch với nhiệt độ nước.
– Ngoài ra còn có thể do yếu tố dinh dưỡng như: thiếu hụt các chất vi lượng trong khẩu phần ăn của tôm.
* Phòng – trị bệnh:
– Tránh hiện tượng gây sốc do nhiệt độ, đảm bảo độ sâu cho ao, tránh bắt tôm vào ngày có nhiệt độ cao hay nhiệt độ thấp.
– Bổ sung khoáng chất trong khẩu phần ăn nếu do yếu tố dinh dưỡng (thiếu hụt các chất vi lượng).
7. Bệnh đen mang
* Dấu hiệu bệnh lý:
– Tôm bị bệnh thường có hiện tượng mang chuyển từ màu trắng ngà sang màu nâu hoặc đen kèm theo những thương tổn ở mang.
– Hô hấp khó khăn, nổi đầu, dạt bờ, ăn kém hoặc bỏ ăn, gây chết rải rác hoặc gây chết hàng loạt khi hàm lượng ôxy giảm dưới ngưỡng thích ứng.
* Tác nhân gây bệnh:
– Do tôm sống trong môi trường có nền đáy ô nhiễm, nhiều chất hữu cơ hoặc tảo tàn, các chất này bám vào mang gây hiện tượng đen mang.
– Trong ao có hàm lượng NH3, NO2 cao cũng làm tôm đen mang.
– Ngoài ra, tôm bị đen mang còn do những thương tổn trên mang làm xuất hiện sắc tố melanin màu đen, là sản phẩm của phản ứng miễn dịch tự nhiên của tôm, cua.
– Bệnh thường gặp trong các ao tôm thẻ chân trắng từ tháng nuôi thứ 2.
* Phòng – trị bệnh:
Điều kiện phát sinh bệnh đen mang là do môi trường bị ô nhiễm, đáy ao nhiều chất hữu cơ, hàm lượng khí độc cao. Do đó, trị bệnh đen mang bằng các biện pháp:
– Dùng chế phẩm vi sinh để làm sạch đáy ao, hấp thụ khí độc.
– Cho tôm ăn vitamin C.
– Thay nước ở tầng đáy nếu điều kiện cho phép.
8. Hội chứng Taura – TSV (Taura syndrome in Penaeus vannamei)
– Bệnh Taura còn gọi là bệnh đỏ đuôi.
– Khi tôm bị bệnh cơ thể và các bộ phận khác có màu đỏ hoặc đen hồng, biếng ăn, bơi lờ đờ trên mặt nước hoặc rúc vào ao, đìa nuôi.
– Gan tụy có màu vàng hơn bình thường, mang bị sưng, thường là tôm chết lúc lột xác.
– Bệnh rất nguy hiểm với tôm thẻ, thời gian ủ bệnh ngắn và có thể gây chết đến 95 % tôm. Tôm chết hay chìm xuống đáy và 2-3 ngày sau nổi lên mặt ao và thấy nhiều tôm chết quanh bờ.
– Bệnh do một số tổ hợp mầm bệnh gồm vi khuẩn Vibrio harveyi và 3 loại virus gây ra.
– Bệnh Taura xuất hiện từ khi tôm nuôi được 2 tuần tuổi cho đến khi trưởng thành, đến giai đoạn lột xác và có khả năng cấp tính làm tôm èo ọt, mềm vỏ, phá huỷ hệ tiêu hoá và khuyếch tán, lan truyền rất nhanh.
– Trong thực tế cho thấy, ít khi chỉ xuất hiện một bệnh trong ao nuôi, khi tôm bị bệnh thường thấy nhiều loại cùng một lúc như đốm trắng kết hợp với bệnh đầu vàng; bệnh Taura kết hợp với đốm trắng…Khi quan sát thấy triệu chứng của 2 bệnh cùng xuất hiện, thì hiện tượng tôm chết nhiều sẽ xảy ra nhanh hơn.
9. Bệnh virus đốm trắng (White spot Baculovirus- WSBV)
– Tôm có thể bị chuyển sang màu hồng đỏ, khả năng tiêu thụ thức ăn giảm rõ ràng.
– Cơ thể tôm xuất hiện các đốm trắng tròn dưới vỏ, tập trung chủ yếu ở giáp đầu ngực và đốt bụng cuối cùng.
– Bơi lờ đờ trên mặt nước và tấp vào bờ. Hiện tượng tôm chết xảy ra ngay sau các biểu hiện đó, tỷ lệ chết cao, có thể từ 90-100% trong vòng 3-7 ngày.
10. Bệnh Hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính (Acute Hepatopancreatic Necrosis Syndrome – AHPNS) hay còn gọi là Hội chứng chết sớm (Early Mortality Syndrome – EMS)
– Giai đoạn nhiễm bệnh:
Trong suốt quá trình nuôi, tập trung nhiều ở giai đoạn 10-45 ngày sau khi thả nuôi.
– Triệu chứng lâm sàng:
+ Giai đoạn đầu, triệu chứng của bệnh chưa rõ ràng.
+ Tôm chậm lớn, lờ đờ, bỏ ăn, tấp mé và chết ở đáy ao nuôi.
+ Giai đoạn tiếp theo, tôm bệnh có hiện tượng vỏ mềm, màu sắc cơ thể biến đổi, gan tụy mềm nhũn, sưng to hoặc bị teo lại.
– Dấu hiệu bệnh tích:
+ Tổ chức gan tụy thoái hóa tiến triển cấp tính.
+ Thiếu hoạt động phân bào đẳng nhiễm trong tế bào có nguồn gốc từ mô phôi (tế bào E: Embyonalzellen).
+ Các tế bào trung tâm của tổ chức gan tụy (tế bào tiết B: Basenzellen, tế bào xơ F: Fibrillenzellen, tế bào dự trữ R: Restzellen) có sự biến đổi cấu trúc và rối loạn chức năng.
+ Các tế bào của tổ chức gan tụy có nhân lớn bất thường và có hiện tượng bong tróc tế bào biểu mô ống lượn và bị viêm nhẹ.
+ Giai đoạn cuối của hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính có sự tập hợp của tế bào máu ở giữa ống gan tụy và nhiễm khuẩn thứ cấp.
– Biện pháp phòng bệnh:
+ Tuân thủ lịch mùa vụ thả nuôi và chọn con giống thả nuôi đảm bảo chất lượng.
+ Thực hiện qui trình cải tạo ao (bón vôi, bừa kỹ, ngâm để phân hủy Cypermethrin, Deltamethrin trong bùn đáy); qui trình nuôi (chỉ sử dụng chế phẩm sinh học và thức ăn thích hợp, đảm bảo chất lượng, không để dư thừa thức ăn) theo hướng dẫn của cơ quan quản lý thủy sản.
+ Không sử dụng các chất diệt tạp, hóa chất cấm hoặc có nguồn gốc thuốc bảo vệ thực vật để xử lý môi trường ao nuôi.
11. Bệnh hoại tử cơ quan tạo máu: (Infectious Hypodermal and Hematopoietic Necrosis – IHHN)
– Gây bệnh IHHN là một virus có tên Parvovirus.
– Tôm chân trắng bị bệnh này thường ở dạng mãn tính và thể hiện một số đặc điểm:
Còi cọc, kém ăn, phân đàn cao; Vỏ xù xì thô ráp và méo mó; Chùy đầu có hiện tượng uốn cong hay dị dạng.
12. Bệnh do virus gây hoại tử cơ (infectious myonecrosis virus – IMNV)
– Tôm có biểu hiện là đục phần cơ đuôi lan ra toàn thân.
– Hoạt động lờ đờ rồi chết, tỉ lệ tôm chết có thể lên đến 40-60% trong ao nhiễm.
– Triệu chứng giống như bệnh do IMNV cũng có thể thấy khi tôm gặp những yếu tố môi trường không thuận lợi như thiếu dưỡng khí, mật độ nuôi cao hoặc thay đổi đột ngột của nhiệt độ và độ mặn.
13. Bệnh phân trắng
– Tác nhân gây bệnh
+ Bệnh này do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu do vi khuẩn, ký sinh trùng, yếu tố môi trường, trong đó tác nhân chủ yếu là vi bào tử thuộc giống Plexstophora và vi khuẩn thuộc giống Vibrio.
+ Ở miền Bắc, bệnh thường xuất hiện từ tháng 4 đến tháng 7; trong đó nhiều nhất vào tháng 5, tháng 7. Ở miền Trung, bệnh xuất hiện rải rác. Ở miền Nam, bệnh tập trung từ tháng 8 đến tháng 10. Bệnh thường xuất hiện trong mùa nắng nóng, nhiệt độ nước cao, mật độ nuôi cao; tôm dễ bị bệnh khi nuôi được từ 40 đến 90 ngày. Đặc biệt, bệnh thường xuất hiện khi thời tiết bất thường (nắng nóng, mưa kéo dài hoặc khi thời tiết thay đổi).
Bệnh xuất hiện cả trên tôm sú và tôm thẻ chân trắng.
– Dấu hiệu bệnh
Khi tôm bị bệnh, kiểm tra sàng/nhá/vó sẽ thấy phân tôm màu trắng trên sàng ăn hoặc nổi trên mặt nước dọc bờ ao, góc ao (cuối hướng quạt nước, cuối hướng gió). Tôm bị phân trắng sẽ giảm ăn hoặc ăn không tăng theo tuổi. Kiểm tra tôm sẽ thấy ruột tôm không đầy thức ăn, có những đốm màu vàng cát ở phần cuối ruột. Tôm bị óp, vỏ mỏng, teo nhỏ dần và chậm lớn.
– Cách phòng ngừa
+ Để phòng ngừa bệnh này, cần phải chuẩn bị ao nuôi sạch sẽ ngay từ đầu. Không sử dụng thức ăn bị nấm, mốc; hạn chế sử dụng thức ăn tươi.
+ Trong quá trình nuôi quản lý chặt chẽ các yếu tố môi trường; định kỳ sử dụng chế phẩm sinh học làm sạch môi trường. Thay nước định kỳ và sử dụng hóa chất diệt khuẩn sẽ giúp hạn chế bệnh phân trắng, đặc biệt trong những thời điểm nắng nóng, mưa kéo dài.
+ Tăng cường men vi sinh tiêu hóa, giúp tôm hấp thụ thức ăn tốt hơn. Bổ sung vitamin và khoáng chất giúp tôm tăng cường sức khỏe và giảm căng thẳng (stress). Đối với những con tôm bị chết phải vớt ra khỏi ao để tránh tình trạng bệnh lây lan do tôm khỏe ăn tôm bệnh.
+ Trên thị trường hiện nay có sẵn những loại thuốc để phòng ngừa và trị bệnh phân trắng cho tôm. Những loại thuốc này là kháng sinh nên khi sử dụng cần theo đúng liều lượng đã quy định. Tránh dùng vội, tăng liều hoặc sử dụng không đủ, gây hiện tượng nhờn thuốc, dẫn đến thời gian điều trị kéo dài, vừa tốn kém vừa không hiệu quả.